Bao giờ công nghiệp giải trí Việt Nam có được những đêm nhạc BlackPink?

VHO - Chắc chắn, một trong những sự kiện nghệ thuật được nhắc đến nhiều nhất năm 2023, và có thể còn ở những năm sau này nữa, là việc ban nhạc BlackPink có hai đêm diễn tại Hà Nội trong tour diễn Born Pink vòng quanh thế giới. Hiếm hoi có được sự kiện ở Việt Nam nào nhận được nhiều sự quan tâm của người hâm mộ ở trong và ngoài nước đến như vậy. Truyền thông dày đặc trước, trong và sau sự kiện. Những đánh giá đa chiều từ góc độ nghệ thuật, kinh doanh, tổ chức sự kiện, xây dựng thương hiệu nghệ thuật hay cả ở những cách tiếp cận ít liên quan khác.

Bao giờ công nghiệp giải trí Việt Nam có được những đêm nhạc BlackPink? - Anh 1

Thành công của làn sóng Hàn Quốc 

Không biết có liên hệ gì không nhưng  tôi vẫn nhớ đến câu chuyện để dẫn đến  thành công của làn sóng Hàn Quốc  đang chinh phục thế giới ngày hôm nay  đến từ sự thành công của bộ phim Công  viên Kỷ Jura (Jurassic Park) vào cuối  những năm 90 của thế kỷ trước đã thay  đổi nhận thức của người Hàn Quốc như  thế nào về công nghiệp giải trí trong sự  phát triển kinh tế - xã hội của đất nước,  khi mà chỉ một bộ phim của Mỹ đã có  doanh thu toàn cầu bằng 500.000 chiếc  xe của hãng xe hơi Hyundai lớn nhất  Hàn Quốc. Điều này khiến người Hàn  Quốc phải suy nghĩ nghiêm túc về chiến  lược phát triển đất nước của mình trong  việc đầu tư nhiều hơn cho công nghiệp  văn hóa, những thứ là xu hướng phát  triển, quyền lực mềm, thay cho việc cứ  mải miết đi làm những công việc của các  ngành công nghiệp nặng, gây ô nhiễm  môi trường, thâm dụng lao động và rất  nhiều hệ lụy khác.  
Từ đó, các chính sách như gửi nghệ sĩ  đi học ở Mỹ, đào tạo các kỹ năng kinh  doanh, đầu tư cho công nghệ mới, cho  cơ sở hạ tầng để tổ chức các sự kiện nghệ thuật quốc tế, khuyến khích các  tập đoàn lớn đầu tư cho nghệ thuật  bằng chính sách ưu đãi thuế,... đã giúp hình thành nên làn sóng Hàn Quốc như chúng ta chứng kiến ngày hôm nay. Ở đó, không chỉ có Gangnam Style làm mưa, làm gió, hay BlackPink nổi đình  nổi đám, mà ban nhạc BTS trở thành hiện tượng khi nhiều lần xếp hàng đầu  trong bảng xếp hạng âm nhạc Bill Board  của Mỹ (điều chưa ban nhạc châu Á nào  làm được). Với tư cách là đại sứ du lịch năm 2017, BTS giúp hồi phục kinh tế đất  nước nhờ mỗi năm thu hút khoảng 790  nghìn du khách đến Hàn Quốc. Tháng 12.2018, Viện nghiên cứu Huyndai ước tính BTS mang về hơn 3,67 tỉ đô la cho Hàn Quốc mỗi năm, do cứ 13 du khách thì có một người là fan của BTS. Tính đến tháng 6.2019, nhóm này đóng góp  cho Hàn Quốc khoảng 5,5 nghìn tỉ won  (4,65 tỉ đô la, tương đương 0,7% GDP).  Thậm chí, ngày 21.9.2021, tại phiên họp Đại hội đồng Liên Hợp Quốc lần thứ 76  tại New York (Mỹ), với tư cách là đặc phái viên của Tổng thống Hàn Quốc về văn hóa và thế hệ tương lai, 7 thành  viên của ban nhạc BTS đã truyền tải  tiếng nói của thế hệ tương lai về thế  giới trước và sau đại dịch Covid-19. Dù tất cả đều nói tốt tiếng Anh nhưng các thành viên đều phát biểu bằng tiếng Hàn. Họ giới thiệu ca khúc Permission to dance để chào đón một thế giới thay đổi. Sân khấu ghi hình tại trụ sở Liêp  Hợp Quốc và livestream trên toàn thế giới. Đó cũng là giấc mơ của Việt Nam! Chúng ta mong muốn rằng, những ví  dụ trên, và đặc biệt, hai đêm nhạc của  BlackPink cũng thay đổi Việt Nam  theo hướng như vậy. 

Bao giờ công nghiệp giải trí Việt Nam có được những đêm nhạc BlackPink? - Anh 2

Đêm diễn bằng năm làm của BlackPink

Đừng quá đam mê hướng ngoại… 

Kể từ khi bắt đầu công cuộc Đổi mới,  đất nước ta đã có sự phát triển vượt bậc. Không chỉ đối với những người đã lâu  mới trở lại Việt Nam, tất cả người dân  Việt Nam đều cảm nhận rõ ràng những  chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Đối  với lĩnh vực văn hóa, ông cha ta trước  đây có câu: “Phú quý sinh lễ nghĩa”. Bên cạnh quan điểm của Đảng về phát triển  văn hóa, chính nhờ đời sống kinh tế khá giả lên đã giúp cho đời sống văn hóa  nghệ thuật của đất nước trở nên sinh  động, đa dạng và phong phú.  
Tôi nhớ, khi còn nhỏ, năm nào cũng  chờ đợi để được xem những bộ phim hay của Việt Nam như các tập phim Ván bài lật ngửa, hay đợi đến gần 7 giờ tối để mang ghế xếp hàng xem chương trình Những bông hoa nhỏ với Hãy đợi đấy, thì giờ đây, nhiều người bội thực vì  không biết phải lựa chọn xem phim gì, kênh nào...  
Tuy nhiên, không phải tất cả đều là màu hồng. Cuộc sống luôn thay đổi  khiến văn hóa cũng phải tìm cách ứng  phó. Kinh tế thị trường có những lợi  ích nhất định nhưng cũng có nhiều hệ  lụy để lại cho xã hội. Đó là sự sùng bái  những giá trị vật chất một cách thái quá  mà đôi lúc không để tâm đúng mức tới  những giá trị tinh thần; chú ý quá nhiều  đến cái tôi cá nhân mà nhiều khi quên  đi tập thể; đồng tiền len lách vào mọi  mối quan hệ xã hội, kể cả các mối quan  hệ tinh thần, tâm linh. Mở rộng hợp  tác quốc tế cũng tương tự như vậy. Bên  cạnh tinh hoa văn hóa thế giới cũng là  những thứ hào nhoáng, lấp lánh nhưng  vô giá trị, không phù hợp, thậm chí làm  băng hoại giá trị văn hóa dân tộc. 
Chưa bao giờ chúng ta thấy có nhiều  lễ lạt, kỷ niệm theo kiểu của nước ngoài  ảnh hưởng lớn đến thị hiếu, lối sống của  giới trẻ như bây giờ. Khi quá đam mê  hướng ngoại, văn hóa dân tộc cũng dễ  bị ảnh hưởng tiêu cực, lãng quên. Thêm  vào đó, sự phát triển như vũ bão của  cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ  tư và Internet đã đưa một thế giới nữa  xen vào cuộc sống của con người. Thế  giới ảo có những nguyên tắc, lối sống, ngôn ngữ, thói quen, hay nói cách khác  là văn hóa mạng khác với những gì chúng  ta từng biết. Mặt trái của văn hóa mạng là  những hành xử thiếu tôn trọng, rất nhiều  thông tin tiêu cực, lệch lạc, không thể hiện  trách nhiệm đối với người khác và ngay cả  với chính bản thân mình. “Văn hóa còn thì  dân tộc còn, văn hóa mất thì dân tộc mất”.  Nguy cơ đồng hóa, vong bản đang rất rõ  ràng trong giai đoạn hiện nay. Chính vì thế,  như một đại biểu Quốc hội vẫn nhắc: Ước  gì kinh tế như bây giờ, ứng xử văn hóa như  ngày xưa! Điều đó chứa đựng mong ước về  một thời kỳ không bị “xâm lăng” văn hóa,  không bị nhập siêu các sản phẩm văn hóa nghệ thuật, và khi những giá trị đạo đức  truyền thống được coi trọng, là hệ điều tiết  cho sự phát triển đất nước. 
Nghệ thuật nước ta cũng có nhiều phát  triển nhưng đang đối mặt với nhiều thách  thức, có cả những thách thức phi truyền thống. Nếu như nền nghệ thuật truyền  thống luôn đề cao giá trị khuyến giáo đạo  đức, là kênh trao truyền những giá trị, khuôn mẫu ứng xử từ thế hệ này sang thế  hệ khác qua những câu ca dao, hò vè, chèo, tuồng, cải lương, hay nhìn chung là dân ca,  dân vũ với những chủ đề như trung quân, ái quốc, tam tòng, tứ đức, tam cương, ngũ thường,… đã giữ cho truyền thống văn hóa  tiếp nối liên tục, thì nền nghệ thuật cách  mạng đưa thêm hơi thở mới của cuộc sống, làm sâu sắc hơn giá trị yêu nước, đoàn kết  và quyết tâm giành độc lập, tự do cho dân  tộc. Văn học, nghệ thuật đóng góp rất lớn trong việc xây dựng nền tảng tinh thần  cho xã hội. Giờ đây, bối cảnh xã hội mới đã  khiến văn học, nghệ thuật chịu ảnh hưởng rất lớn và phải thay đổi theo thời cuộc. Cách thức của chúng ta trông chờ vào văn  học, nghệ thuật vẫn như vậy, chủ yếu trách nhiệm tinh thần là chính. Nhưng một xã  hội giải trí của nền kinh tế thị trường buộc  văn học, nghệ thuật phải thay đổi ít nhiều  để thích nghi với cuộc chơi mới. Sự giằng  xé giữa một bên là đòi hỏi đề cao những  giá trị tinh thần cao cả và một bên là chiều  theo thị hiếu số đông để đi tìm kiếm lợi ích  vật chất không phải lúc nào cũng tìm được  điểm cân bằng. Điều này dẫn đến những  tranh luận không hồi kết đối với những  sản phẩm nghệ thuật, cụ thể như phim Đất  rừng phương Nam vừa qua là một ví dụ  như thế, hay trước kia là những tranh cãi về  dòng phim thị trường và phim nghệ thuật  khi những bộ phim như Lọ Lem hè phố hay Gái nhảy lúc mới xuất hiện.  
Không chỉ trong điện ảnh - vốn dễ nổi  và nhận được sự quan tâm rộng rãi hơn -  âm nhạc, hội họa, văn học… đều có những  tranh luận tương tự. Chúng ta bắt đầu đặt  ra câu hỏi như: Tại sao, giờ đây, những tác  phẩm văn học, nghệ thuật lớn không xuất  hiện? Do chúng ta thiếu nhân tài, đầu tư chưa xứng tầm, kiểm duyệt thái quá hay  thiếu môi trường khuyến khích sáng tạo…?  Công nghiệp giải trí được xem như câu trả  lời chung cho tất cả những thắc mắc này. 

Không chỉ là câu chuyện tiền nong 

Nhiều người hỏi tôi rằng, Việt Nam đã  thực sự có công nghiệp giải trí hay chưa?  Câu trả lời của tôi vẫn luôn vậy: Vừa CÓ, vừa KHÔNG. CÓ là vì nếu xem công nghiệp  giải trí gồm những ngành như âm nhạc,  điện ảnh, sân khấu,… thì rõ ràng là chúng ta đều có cả. KHÔNG là bởi để trở thành ngành công nghiệp giải trí thì phải bảo đảm tính chuyên nghiệp, có sự liên kết của cả 4 khâu: Tài năng sáng tạo, vốn văn hóa, công nghệ và kỹ năng kinh doanh trong hoạt động của các ngành này. Điều đó,  chúng ta lại chưa có, hoặc ở giai đoạn ban  đầu của quá trình chuyên nghiệp, rất lỏng  lẻo trong liên kết giữa các khâu. Ví dụ như, người nghệ sĩ thì ít am hiểu giá trị văn hóa  của dân tộc để có thể khai thác một cách  hiệu quả, cũng không có nhiềukiến thức về  công nghệ và kỹ năng kinh doanh để có thể  xây dựng thương hiệu, phát triển khán giả  cho mình. Người đạo diễn cũng tương tự, ít kiến thức về xây dựng thương hiệu cho  bộ phim và cho chính bản thân mình, chưa  biết cách phát triển khán giả cho tác phẩm  của mình. Ngoài chuyên môn nghề nghiệp,  trong công nghiệp giải trí, mọi người chủ  yếu hoạt động bằng kinh nghiệm là chính. Thế nên mới có chuyện, nhiều bộ phim,  vở kịch, bài hát bùng nổ một thời gian, rồi  cũng chỉ trở thành một hiện tượng, chứ  chưa trở thành một xu hướng. Những bài  hát như See tình hay Vũ điệu rửa tay, Ghen  Covi chỉ là những hiện tượng hiếm hoi, vụt  sáng rồi vụt tắt, chưa dẫn dắt nghệ thuật  Việt Nam ra thế giới. Chúng ta cũng chưa  có được những tên tuổi lớn về nghệ thuật được công chúng khu vực và thế giới ghi  nhận. Nhận diện về văn học, nghệ thuật  Việt Nam ngay ở khu vực cũng rất mờ nhạt,  chưa thể vươn tới tầm thế giới. Đây là lý do,  khi chứng kiến hai đêm diễn của BlackPink  tại Hà Nội, chúng ta lại càng lo lắng cho  ngành công nghiệp giải trí của đất nước.  
Chúng ta cũng cần suy nghĩ nhiều hơn  về việc xây dựng một môi trường hỗ trợ  cho sáng tạo văn học, nghệ thuật gồm một khung pháp lý thuận lợi trong cả bảo  vệ bản quyền, thuế, đất đai, hợp tác công  tư,…; giáo dục và nâng cao nhận thức,  thị hiếu nghệ thuật; phát triển các không  gian sáng tạo; đầu tư cơ sở hạ tầng cho  công nghiệp giải trí; đào tạo nhân lực; hợp  tác quốc tế;… để tạo điều kiện cho công  nghiệp giải trí phát triển đúng tầm, tương  xứng với tiềm năng của đất nước. Khi  chúng ta phát triển công nghiệp giải trí,  đây không chỉ là câu chuyện của việc thu  lại bao nhiêu tiền cho đất nước, mà còn là việc đưa những giá trị văn hóa Việt Nam  ra thế giới, để chúng ta khẳng định giá  trị, bản lĩnh và sự tự tin Việt Nam trong  quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra  rất sôi động. Khi chúng ta xây dựng vững  chắc sức mạnh mềm từ công nghiệp giải  trí, chúng ta sẽ kể tốt câu chuyện về Việt  Nam, thể hiện tốt hình ảnh đất nước, con  người Việt Nam, truyền bá tốt tiếng nói  Việt Nam, cung cấp trí tuệ Việt Nam và  phương án Việt Nam cho không chỉ văn  học, nghệ thuật, mà còn lan tỏa sang các  lĩnh vực chính trị, kinh tế và xã hội.  
Đó chắc chắn là ước mơ lớn của dân  tộc ta! 

“Khi chúng ta phát triển công nghiệp giải trí, đây không chỉ là câu chuyện của việc thu lại bao nhiêu tiền cho đất nước, mà còn là việc đưa những giá trị văn  hóa Việt Nam ra thế giới, để chúng ta khẳng định giá  trị, bản lĩnh và sự tự tin Việt  Nam trong quá trình hội nhập quốc tế đang diễn ra  rất sôi động”. 

 

PGS.TS BÙI HOÀI SƠN

Ý kiến bạn đọc